Thứ Sáu, 13 tháng 6, 2014

BÀI VIẾT NHÂN ĐI XE ĐẠP VỀ NGUỒN THĂM ĐỀN NGUYỄN TRÃI

                                        NÓI CHUYỆN VỀ NGUYỄN TRÃI
                                    (Phát biểu nhân đi xe đạp “về nguồn” thăm đền Nguyễn Trãi)

                                                                                    Lê Trọng Hồng 
                                                                                           PCT Hội NCT

          Cụ Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, Sinh năm 1380 và mất năm 1442, người làng Nhị Khê, phủ Thượng Phúc (tức phủ Thường Tín tỉnh Hà Đông). Năm 21 tuổi cụ thi đỗ Thái học sinh (tức là Tiến Sĩ) vào năm Thánh nguyên thứ nhất triều vua Hồ Quý Ly (1440), làm quan đến chức Ngự sử đài chánh trưởng.
          Thân phụ của cụ là Nguyễn Phi Khanh, hiệu là ứng Long, thi đỗ Bảng nhãn niên hiệu thứ 2 triều vua Trần Duệ Tông (1374). Cũng vì cụ là con nhà nghèo mà lại lấy con gái Cụ Trần Nguyên Đán là Tôn thất nhà Trần nên cụ không được bổ nhiệm làm quan. Mãi cho đến khi triều đình vào tay nhà Hồ thì cụ mới được bổ làm Trung thư thị lang. Khi quân Minh sang xâm lấn, hai cha con vua nhà Hồ bị bắt, cụ Nguyễn Phi Khanh cũng bị giải về Trung Quốc. Lúc ấy cụ Nguyễn Trãi cũng theo cha lên đến Mục Nam Quan. Cha của cụ đã ngoảnh lại bảo rằng:" Con về rửa thù cho nước, báo thù cho cha mới là người trung đại hiếu. Không nên theo thói nữ nhi thường tình!"
          Khi quay về cụ Nguyễn Trãi bị giặc giam lỏng tại thành Đông Quan cho đến khi cụ thoát ra được, cụ đã theo nghĩa quân Lam Sơn của Lê Lợi đứng lên đánh đuổi giặc. Trong hơn 10 năm kháng chiến cụ đã bày mưu kế giúp vua Lê đánh giặc. Phàm những văn thư giao thiệp với nhà Minh đều do cụ soạn thảo. Sau khi đánh đuổi được quân Minh cụ được phong tước Quan phục hầu và được liệt vào lớp người khai quốc công thần đệ nhất. Trong thời vua Lê Thái Tông cụ được làm Nhập nội hành khiển (tức Tể tướng) trong triều. Năm cụ 60 tuổi thì về trí sĩ tại Côn Sơn, Chí Linh thuộc Hải Dương. Cho đến 3 năm sau thì cụ mắc án oan rồi phải tội tru di tam tộc.
          Trong sử chép: vào năm thứ 3 triều vua Lê Thái Tông (1442), nhà vua đi tuần phương đông duyệt võ ở Chí Linh, Nguyễn Trãi được lệnh đón xa giá. Khi xa giá đến vườn Lệ Chi ở xã Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh thì nhà vua bị sốt. Người thiếp của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ vào chầu coi sóc, không may đêm ấy nhà vua mất. Ai nấy đều cho rằng Thị Lộ thí nghịch, nên Nguyễn Trãi bị khép vào tội tru di. Đến đời vua Lê Thánh Tông (tức Lê Tư Thành) trị vì, cụ mới được nhà vua minh oan và được truy phong Tế văn hầu. Trong cảnh thái bình thịnh trị nhà vua đã nhắc đến công lao của những công thần tài về văn chương và giỏi về võ học đã giúp cho non sông xã tắc. Có một bài thơ của ngài đã nói về việc đó với hai câu sau:"ức Trai tâm thượng quang khuê tảo; Vũ Mục hung trung liệt giáp binh". Nghĩa là trong tâm của ức Trai (tức Nguyễn Trãi) văn chương rực rỡ không gì sánh nổi và trong bụng  của Vũ Mục (tức Lê Khôi) mưu lược không thể nào kể xiết.
          Từ lâu nhân dân ta đã từng biết đến cụ Nguyễn Trãi với áng Hùng văn thiên cổ đó là Bài cáo bình Ngô với những đoạn như :"...Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt trước lo trừ bạo. Như nước Đại Việt ta từ trước, vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Núi sông bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác. Trải Triệu, Đinh, Lý Trần, bao đời dựng nước, cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên hùng cứ một phương....". Nhiều áng văn chương uy mãnh, sắc bén trong các thư, trát gửi triều đình phương Bắc. Trong thư dụ Vương Thông  cụ đã có những đoạn:" ...được thời có thế thì biến mất làm còn, hoá nhỏ thành lớn. Mất thời không thế thì quay mạnh thành yếu, yên chuyển làm nguy, chỉ như khoảng trở bàn tay mà thôi. Nay các ông không rõ thời thế, lại trang sức bằng những lời dối trá, thế chẳng phải là kẻ thất phu hèn kém ư? Sao đủ để cùng nói việc binh được?"
          Ngoài những tác phẩm văn xuôi cụ còn có khá nhiều các bài thơ chữ nôm và chữ Hán. Những bài thơ luôn phóng khoáng, tươi tắn giầu chất nhân văn  viết về Côn Sơn như bài: Quy Côn sơn chu trung tác (Viết trong thuyền về Côn Sơn); bài Loạn hậu đáo Côn Sơn (Sau loạn về Côn Sơn) hoặc bài Côn Sơn ca (Bài ca Côn Sơn) với những câu:"Côn Sơn hữu tuyền, kì thanh linh linh nhiên, ngô dữ vi cầm huyền..."
          Dịch là : "Côn Sơn suối chảy rì rầm, ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai. Côn Sơn có đá rêu phơi, ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm vv..."  hoặc các bài mang chất oanh liệt, hào hùng, viết khi trở lại Lam Sơn, như bài: Hạ quy Lam Sơn nhất kỳ (Trở lại Lam Sơn  kì 1); Hạ quy Lam Sơn kỳ nhị (Trở lại Lam Sơn kì 2), hoặc bài : Bạch Đằng hải khẩu (Cửa biển Bạch Đằng) với những câu :
Sóc phong xuy hải khí lăng lăng
Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng
Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc
Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng
Quan hà bách nhị do thiên thiết
Hào kiệt công danh thử địa tằng
Vãng sự hồi đầu ta dĩ hĩ
Lâm lưu phủ cánh ý nan thăng.

Dịch là:

Biển rung gió bấc thổi băng băng
Nhẹ cất buồm thơ vượt Bạch Đằng
Kình ngạc băm vằm non mấy khúc
Giáo gươm chìm gãy bãi bao tầng
Quan hà hiểm yếu trời kia dựng
Hào kiệt công danh đất ấy từng
Việc trước quay đầu ôi đã vắng
Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng.

          Nhân 600 năm ngày mất của cụ, nhà nước ta đã long trọng tổ chức kỷ niệm và tiến hội thảo toàn quốc về cụ. Cũng trong thời gian này tổ chức UNESCO đã công nhận cụ là Danh nhân văn hoá của Thế giới. Từ ấy đến nay nhà nước luôn quan tâm tổ chức kỷ niệm hàng năm. Nhiều công trình thờ cúng được tôn tạo và xây mới. Đền thờ Nguyễn Trãi ở Côn Sơn hôm nay là một trong những công trình hoành tráng đó đã được nhà nước và nhân dân ta đóng góp xây dựng. Trong đó có sự đóng góp công sức của mỗi người dân Chí Linh chúng ta ở đây.
          Trong đền thờ cụ có nhiều câu đối nói về gia phong, khí tiết và cả về những việc cụ đã làm cho đất nước ngày ấy. Đó chính là những điều tâm huyết mà các bậc văn tài đã thay chúng ta suy tôn công đức của cụ. Chỉ xin trích vài câu để chúng ta cùng nghe, cùng đồng cảm. Những câu đó là:
          - Di tượng thanh cao kim nhật uy nghi phục kiến.
          - Chính khí lẫm liệt thiên thu tinh phách như sinh
 Hoặc:
          - Càn tồn khôn tồn thiên địa tồn Côn Lĩnh vĩnh tồn
          - Cảnh tại vật tại sơn hà tại ức Trai trường tại.
Hoặc:
          - Tổ tiền triều Bảng nhãn tướng công khoa hoạn tính danh tiêu Bắc quốc
          - Đãi hậu thế Bình Ngô đại cáo văn chương sự nghiệp hách Nam bang
         
          Cuộc "Hành quân về nguồn" của chúng ta hôm nay chính là một đợt sinh hoạt chính trị tưởng nhớ về cội nguồn. Một việc làm hết sức tốt đẹp thiết thực tưởng nhớ đến những người có công với dân tộc, có công với đất nước.Thể hiện lòng biết ơn các vị anh hùng dân tộc của mỗi người cao tuổi chúng ta. Từ đó càng cố gắng hơn, theo gương của các cụ làm nhiều việc tốt có làng xóm, cho dân nước. Xứng đáng là những người cao tuổi của một vùng quê địa linh nhân kiệt.

                                 Xin cảm ơn sự chú ý lắng nghe của các cụ trong bài phát biểu hôm nay! 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét